Ngày hôm qua, chúng tôi đọc bài viết được đăng tải trên trang koreabiomed.com về doanh thu của sản phẩm Cartistem – một sản phẩm thuốc tế bào gốc được nghiên cứu, sản xuất và đăng kí lưu hành tại Hàn Quốc bởi công ty Medipost từ năm 2012. Doanh thu hàng năm của sản phẩm này đã đạt khoảng 8 triệu USD (khoảng 184 tỉ đồng); và trong 6 tháng đầu năm 2019 đã bán được khoảng 7 triệu USD (khoảng 161 tỉ đồng), và dự kiến sẽ đạt khoảng 260 tỉ đồng trong năm 2019. Cartilatist là sản phẩm do Viện Tế bào gốc, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Tp.HCM nghiên cứu. Công nghệ này đã hoàn thiện và đã chuyển giao cho Công ty TNHH Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh sản xuất và thương mại từ năm 2020. Sản phẩm Cartilatist (Việt Nam) có thể đạt được những bước tiến ngoạn mục như của Cartistem (Hàn Quốc) ? Dưới đây là bài phỏng vấn nhanh của chúng tôi với PGS.TS. Phạm Văn Phúc – người nghiên cứu phát triển công nghệ sản xuất Cartilatist.
PV: Thưa ông, ông có thể cho biết sự khác nhau chính giữa 2 sản phẩm Cartilatist mà do nhóm của ông nghiên cứu và sẽ sản xuất tại công ty Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh sắp tới và sản phẩm Cartistem của Hàn Quốc?
PGS.TS Phạm Văn Phúc trả lời:
Cartilatist là tên sản phẩm thuốc tế bào gốc do chúng tôi nghiên cứu từ năm 2007 và hoàn thiện vào năm 2018. Cartistem là sản phẩm do công ty Medipost, Hàn Quốc sản xuất và lưu hành tại Hàn Quốc từ năm 2012.
Hai sản phầm này dù có chỉ định điều trị giống nhau, đó là điều trị thoái hoá sụn khớp, nhưng chúng khác nhau lớn về công nghệ. Sự khác biệt lớn nhất là Cartistem, Hàn Quốc sử dụng tế bào gốc từ máu dây (cuống) rốn người; trong khi đó sản phẩm Cartilatist, Viện Tế bào gốc (Việt Nam) sử dụng tế bào gốc từ mô mỡ người.
Hơn nữa, Cartilatist, Viện Tế bào gốc (Việt Nam) sở hữu công nghệ CryoSave giúp tế bào gốc có thể bảo quản dài hạn tế bào gốc trong điều kiện -86 0C. CryoSave II, III là dung dịch bảo quản chuyên dụng cho thuốc tế bào gốc do Viện Tế bào gốc nghiên cứu. Khác với các dung dịch bảo quản khác, CryoSave II và III sử dụng rất ít hay không sử dụng chất bảo quản (như DMSO, glycerol…) để bảo quản tế bào gốc; hơn nữa toàn bộ các chất sử dụng và sản xuất CryoSave theo tiêu chuẩn thuốc tiêm và truyền; do đó; sản phẩm Cartilatist có thể bảo quản thời gian dài và sử dụng trực tiếp mà không cần thêm bất kì thao tác nào để loại bỏ dung dịch bảo quản tế bào gốc.
| Cartilatist (Việt Nam) | Cartistem (Hàn Quốc) |
Dạng sản phẩm | Thuốc tế bào gốc/sinh phẩm | Thuốc tế bào gốc/sinh phẩm |
Dạng cấy ghép | Đồng loài (tế bào gốc của người này cấy sang người khác) | Đồng loài (tế bào gốc của người này cấy sang người khác) |
Loại tế bào gốc | Tế bào trung mô từ mô mỡ người | Tế bào gốc trung mô từ máu cuống rốn người |
Tăng sinh in vitro | Nuôi cấy tăng sinh in vitro | Nuôi cấy tăng sinh in vitro |
Dạng thức sản phẩm | Tế bào gốc chứa trong chai | Tế bào gốc chứa trong chai |
Điều kiện bảo quản | Bảo quản dài hạn tại -86 oC | Bảo quản thời gian ngắn tại 4-20 oC |
Sử dụng | Sử dụng kết hợp với Sodium Hyaluronate, hay huyết thương giàu tiểu cầu | Sử dụng kết hợp với Sodium Hyaluronate |
Chỉ định | Thoái hoá khớp và thoái hoá đĩa đệm cốt sống | Thoái hoá khớp |
PV: Thưa PGS, Theo ý trên của PGS thì sản phẩm Cartilatist tốt hơn sản phẩm Cartistem?
PGS. Phạm Văn Phúc:
Đây là câu hỏi mà tôi chưa trả lời được. Tuy nhiên, mỗi sản phẩm sẽ có những ưu thế riêng. Riêng sản phẩm Cartilatist do chúng tôi sản xuất; có lẽ khả năng bảo quản dài hạn của sản phẩm là một ưu thế quan trọng. Còn hiệu quả sử dụng của sản phẩm thì cần nghiên cứu đánh giá, so sánh khách quan và toàn diện mới có thể trả lời được.
PV: Thưa PGS, Theo ông sản phẩm Cartilatist tại thị trường Việt Nam có đạt 8 triệu USD/năm như sản phẩm Cartistem tại Hàn Quốc?
PGS. Phạm Văn Phúc:
Thoái hoá sụn khớp hay thoái hoá đĩa đệm cột sống là những bệnh thường gặp ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Sự thành công của Cartistem, Hàn Quốc làm cho chúng tôi hi vọng nhiều hơn sự thành công của Cartilatist.
Thật vậy, sự thành công của Cartistem, Hàn Quốc một lần nữa khẳng định tính an toàn và hiệu quả cuả điều trị thoái hoá khớp bằng thuốc tế bào gốc trung mô; và khẳng định nhu cầu của xã hội về điều trị bằng phương pháp này.
Khi tìm trên google, tôi nhận thấy rằng Hàn Quốc có dân số chỉ hơn một nửa dân số của Việt Nam (khoảng hơn 50 triệu người). Như vậy, nếu tỉ lệ bệnh và nhu cầu điều trị của hai quốc gia giống nhau thì tôi hi vọng rằng sản phẩm Cartillatist có thể đạt những kết quả khả quan trong thời gian tới.
Điều mà tôi quan tâm không phải là con số 8 tr USD hay 10 USD/năm mà là bao nhiêu người bệnh Việt Nam có thể hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu này. Giá trị thương mại của sản phẩm dù rất quan trọng nhưng có lẽ nó là công việc của Công ty TNHH Bệnh viện Đa Khoa Vạn Hạnh.
PV: Sau sản phẩm Cartilatist này, Viện Tế bào gốc có sản phẩm tế bào gốc nào khác để phục vụ người bệnh?
PGS. Phạm Văn Phúc:
Sản phẩm tiếp theo mà Viện Tế bào gốc đang hoàn thiện và mời gọi chuyển giao công nghệ là Modulatist. Modulatist là sản phẩm thuốc tế bào gốc dùng trong điều trị các bệnh lí hay điều kiện về miễn dịch như viêm mạn tính, bệnh tự miễn, mảnh ghép chống kí chủ, cấy ghép cơ quan… Sản phẩm này được tài trợ một phần bởi Ngân hàng Thế giới thông qua dự án FIRST (bộ KHCN) để hoàn thiện công nghệ.
Xin cám ơn PGS.
Nhóm PV SCI
Leave a Reply